TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP
PHẠM PHÚ THỨ KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ I
TỔ NGỮ VĂN Môn: Ngữ văn, lớp 12
GIÁO DỤC KINH TẾ VÀ PHÁP LUẬT NĂM HỌC 2025-2026
I. CẤU TRÚC VÀ HÌNH THỨC KIỂM TRA
1. Thời gian: 90 phút
2. Hình thức kiểm tra: Tự luận 100%
3. Cấu trúc: 2 phần
* Phần I: Đọc hiểu (6.0 điểm)
- Nội dung: Ngữ liệu là một văn bản truyện có yếu tố kì ảo/ văn bản nghị luận ngoài sgk
- Hình thức: 6 câu hỏi được sắp xếp theo các mức độ: Nhận biết( 2 câu), thông hiểu(3 câu), vận dụng(1 câu)
* Phần II: Viết (4.0 điểm): Viết bài văn nghị luận(khoảng 600 chữ) về một vấn đề liên quan đến tuổi trẻ(những hoài bão, ước mơ)
II. KIẾN THỨC VÀ KĨ NĂNG
1. Phần đọc hiểu
a. Lập luận trong văn bản nghị luận
* Đọc hiểu nội dung
- Nhận biết, phân tích được nội dung của luận đề, luận điểm, lí lẽ và bằng chứng tiêu biểu, độc đáo trong văn bản; chỉ ra mối liên hệ của chúng; đánh giá được mức độ phù hợp giữa nội dung nghị luận với nhan đề của văn bản
- Biết tiếp nhận, đánh giá nội dung với tư duy phê phán; nhận biết được mục đích.
* Đọc hiểu hình thức
- Phân tích và đánh giá được cách tác giả sử dụng một số thao tác nghị luận trong văn bản để đạt được mục đích.
- Phân tích được các biện pháp tu từ, từ ngữ, câu khẳng định, phủ định trong văn bản nghị luận và đánh giá hiệu quả của việc sử dụng các hình thức này.
- Nhận biết và phân tích được vai trò của cách lập luận và ngôn ngữ biểu cảm trong văn bản nghị luận.
b. Yếu tố kì ảo trong truyện kể
* Đọc hiểu nội dung
- Phân tích được các chi tiết tiêu biểu, đề tài, câu chuyện, sự kiện, nhân vật
- Phân tích và đánh giá được chủ đề, tư tưởng, thông điệp mà truyện kể muốn gửi đến người đọc thông qua hình thức nghệ thuật; phân tích sự phù hợp giữa chủ đề, tư tưởng và cảm hứng chủ đạo trong truyện kể.
- Phân tích và đánh giá được giá trị nhận thức, giáo dục và thẩm mĩ của tác phẩm; phát hiện được các giá trị văn hóa, triết lý nhân sinh từ truyện kể
*Đọc hiểu hình thức
- Nhận biết và phân tích được một số yếu tố của truyện truyền kì như đề tài, nhân vật, ngôn ngữ, thủ pháp nghệ thuật…
- Đánh giá vai trò của yếu tố kì ảo trong truyện truyền kì, liên hệ với vai trò của yếu tố này trong truyện cổ dân gian
2. Phần viết: Viết bài văn nghị luận về một vấn đề liên quan đến tuổi trẻ( những hoài bão, ước mơ)
* Mở bài:
- Giới thiệu vấn đề liên quan đến tuổi trẻ, nêu quan điểm của người viết về vấn đề đó.
* Thân bài:
- Giải thích từ ngữ, khái niệm để làm rõ bản chất vấn đề cần bàn luận liên quan đến tuổi trẻ
- Trình bày các khía cạnh của vấn đề
+ Vì sao vấn đề này thiết yếu đối với tuổi trẻ?
+ Vấn đề gợi cho tuổi trẻ những suy nghĩ và hành động như thế nào?
+ Cần có những điều kiện gì để tuổi trẻ thực hiện yêu cầu mà vấn đề nêu ra…?
- Bình luận về sự đúng đắn, thiết thực của vấn đề, bác bỏ ý kiến trái ngược để củng cố quan điểm của mình
- Định hướng hành động của bản thân sau khi nhận thức về vấn đề.
* Kết bài: Khái quát lại ý nghĩa của vấn đề, liên hệ với đời sống thực tại, rút ra bài học cho bản thân.
III. ĐỀ MINH HOẠ
ĐỀ 1
I. ĐỌC HIỂU(6.0 điểm)
Đọc đoạn trích:
(1)Ngoài kia là cả một thế giới rộng lớn đang chờ bạn và ở đó có rất nhiều việc phải làm. Bạn phải đến những nơi chưa ai từng đến và phải làm những việc chưa ai từng làm. Lịch sử do chính những con người quyết tâm làm những điều chưa ai từng tạo nên.[...]
(2)Lịch sử đã chứng minh rằng sự phú cường của các dân tộc được tạo nên từ tinh thần tiên phong và sự lụi tàn là do tính tự mãn, lảng tránh bổn phận. Liệu Hoa Kì có được cường thịnh và hùng mạnh như vậy nếu không có được tinh thần của những người tiên phong? Khai phá mảnh đất miền Tây, chính phủ đã giao đất cho những người dám khai thác và điều đó đã góp phần động viên mạnh mẽ tinh thần tiên phong của họ. Tinh thần tiên phong đã có tác động to lớn trong việc làm cho nước Mĩ được như ngày hôm nay, đó là điều không ai bác bỏ được. Thế còn Tây Ban Nha thì sao? Họ đã ủng hộ một người “mộng tưởng” Colombus và ông ta đã phát hiện cả một thế giới mới. Dĩ nhiên tất cả những chính sách này không phải đều là hoàn hảo nhưng chắc chắn chúng ta có thể học được từ những tấm gương của họ những nguyên lí của sự tiến bộ và phát triển.[...]
(3)Cả một thế giới rộng lớn ngoài kia đang chờ bạn, mặc dù con đường tới đó không hiện ra cho những ai chỉ muốn đi trên các lối mòn quen thuộc và làm những công việc quen thuộc. Với những người này thì thế giới cũng chật hẹp giống như những lối mòn quen thuộc của họ và công việc của họ cũng hạn chế như những thói quen của họ vậy. Còn với những người tiên phong quyết tâm đi trên những con đường mới và thử làm những cái mới với tinh thần cầu tiến và chấp nhận thử thách, thế giới thật sự là một địa bàn rộng lớn và có vô số công việc để làm. Đó là cách thức mà tôi đã và sẽ tiếp tục sống – đi tìm những công việc mới và dồn tất cả những gì tôi có cho chúng
(4)Bạn là thanh niên. Vậy hãy trở thành người đi tiên phong. Đi tiên phong mới là cách sống thực sự. Thế giới đang trở nên khá nhỏ để có thể gọi nó là “Cái làng địa cầu” nhưng vẫn còn rất nhiều nơi để khám phá. Hành tinh chúng ta có rất nhiều người đang làm rất nhiều việc nhưng cũng còn có rất nhiều việc vẫn chưa ai từng làm. Hãy nghĩ đến cả thế giới và có những dự định to lớn, mà đừng sợ thất bại. Con đường của người đi tiên phong là một con đường đơn độc, nhưng bạn phải tự mở đường cho tương lai của chính mình. Đó là tất cả những gì gọi là một cuộc sống thực sự.
(Trích Thế giới quá là rộng lớn và có rất nhiều việc phải làm, Kim Woo Choong,
NXB Văn hóa thông tin, tr.156-160)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 (0.75 điểm). Xác định luận đề của đoạn trích.
Câu 2 (0.75 điểm). Xác định thao tác lập luận chính được sử dụng trong đoạn (2).
Câu 3 (1.0 điểm). Nêu hiệu quả của việc sử dụng các bằng chứng trong đoạn trích.
Câu 4 (1.0 điểm). Mục đích của người viết đoạn trích trên là gì?
Câu 5 (1.0 điểm). Nêu tác dụng của biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong câu sau: Với những người này thì thế giới cũng chật hẹp giống như những lối mòn quen thuộc của họ và công việc của họ cũng hạn chế như những thói quen của họ vậy.
Câu 6 (1.5 điểm). Từ ý kiến: Con đường của người đi tiên phong là một con đường đơn độc, nhưng bạn phải tự mở đường cho tương lai của chính mình, anh/chị hãy rút ra bài học sâu sắc nhất cho bản thân. (Trả lời khoảng 5-7 câu).
II. VIẾT(4.0 điểm)
Anh/Chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ về vấn đề: Tuổi trẻ cần hành động để biến ước mơ thành hiện thực.
---Hết---
ĐỀ 2
- ĐỌC HIỂU (6,0 điểm)
Đọc văn bản sau:
Trên gác xép nhà trưởng bản Hà Văn Nó có chiếc tù và không biết đã từ đời nào sót lại. Chiếc tù và này bằng sừng trâu, khảm bạc, rạn nứt, mạng nhện chăng đầy, tò vò làm tổ ở trong. Không ai chú ý đến nó. Nó nằm đấy, lăn lóc, vất vưởng. Năm ấy, bỗng dưng trong rừng Hua Tát xuất hiện một loại sâu đen kỳ lạ. Chúng bé như những cái tăm, bám đầy chi chít trên những cành lá. Đi vào rừng hay đi lên nương, cứ nghe tiếng sâu bật mình lách tách, tiếng rào rào nghiến lá của chúng mà rợn cả người. Không có thứ lá cây nào mà loài sâu ấy lại không ăn được. Từ lá lúa, lá tre, cả lá của những cây song, cây mây đầy gai cũng bị chúng nhai ngấu nghiến.
Trưởng bản Hà Văn Nó gầy rộc, ông cùng với dân bản tìm đủ mọi cách để diệt thần trùng ấy. Họ rung cây, đốt lửa, hun khói, dội nước nóng và nước lá ngón. Tất cả mọi cách thảy đều vô hiệu. Loài sâu sinh nở nhanh chóng lạ lùng. Bản Hua Tát tiêu điều như có dịch hạch.
Người ta đã bàn tới chuyện dời bản Hua Tát về nơi khác. Các bô lão họp bàn. Mọi người mời thầy mo về cúng. Trưởng bản Hà Văn Nó sai người giết trâu, giết lợn để xin trời đất quỷ thần phù hộ. Thầy mo bảo: - Cái xương ông tổ họ Hà đang rữa, biến thành sâu bọ, phải lôi cái xương ra ánh mặt trời mà rửa mới hết được sâu.
Trưởng bản giật mình. Họ Hà ở đây có tục thiêu người khi chết. Sau khi thiêu xong, xương cốt được cho vào cái tiểu sành mang đi cất giấu. Ở trong dòng họ chỉ có một người đàn ông duy nhất biết được nơi cất giấu này. Trước khi chết, người ấy chọn ra một người trong họ để kế tục mình. Có lời nguyền rằng nếu thù ghét nhau, kẻ địch chỉ cần tìm được xương ấy mang tán trộn vào thuốc súng bắn đi là cả dòng họ tuyệt diệt. Họ Hà không ít kẻ thù. Bây giờ nếu mang ra rửa, làm lộ nơi giấu, khác nào tạo cho kẻ thù cơ hội tốt. Trưởng bản nghĩ ngợi, ông biết kẻ thù đang rình rập ông từng bước, nhưng chẳng lẽ cứ để nạn sâu phá hoại quê hương?
Một đêm cuối tháng, trưởng bản thức dậy rồi gọi con trai là Hà Văn Mao theo mình. Mao mười tám tuổi, tuấn tú, thông minh, trí lực hơn người. Hai cha con trưởng bản bí mật ra đi. Nơi cất giấu hài cốt họ Hà ở một hang sâu tít trên đỉnh núi. Ngoài cửa hang, một cây si già buông rễ phủ kín. Rạch qua lớp rễ ken dày mới chui được vào trong đó. Vất vả lắm, khi ánh mặt trời le lói thì hai cha con trưởng bản mới đưa được cái tiểu sành ra được cửa hang.
Trưởng bản mở nắp tiểu sành, bày xương ra đất, dùng rượu rửa. Xương cốt còn nguyên không hề mủn nát như lời thầy mo nói, ở giữa đám xương có một sợi dây bằng bạc cực kỳ tinh xảo.
Mao hỏi cha: - Dây này để làm gì vậy?
- Không biết! - Trưởng bản nghĩ ngợi. - Có thể nó dùng để buộc hay đeo vũ khí gì chăng?
- Con thích nó - Mao bảo cha và chàng giắt sợi dây bạc vào người.
Hai cha con trưởng bản rời hang, cắt đường xuống núi. Họ đến chỗ ngoặt cách hang không xa thì thấy một toán người lạ nằm phục. Trưởng bản nhận ra kẻ thù, ông sai con chạy về bản gọi người ứng cứu, còn ông ở lại chặn đường.
Trưởng bản lập kế, ông tìm cách nhử kẻ thù ra xa hang sâu bí mật. Trong thế không cân bằng này, tính mạng của ông như treo sợi tóc. Mao về bản. Chàng lập tức gọi ngay những tay súng cừ khôi nhất bản lên rừng để cứu cha mình. Tiếng súng thưa thớt trên rừng khiến lòng chàng như lửa đốt.
Đến trưa, họ mới tìm thấy trưởng bản, ông bị trói dưới gốc cây xa cái hang bí mật đến chục dặm đường. Khẩu súng hết đạn vứt dưới chân ông. Kẻ thù đã cắt lưỡi ông vì không chịu khai nơi dòng họ cất giấu hài cốt.
Mao đưa cha mình về bản. Trưởng bản không chết, nhưng từ bữa ấy ông thành người câm, không còn nói được.
Nạn sâu phá hoại vẫn cứ lan tràn càng ngày càng tệ hại. Mao nổi giận, chàng sai cắt lưỡi thầy mo rửa hận cho cha, rồi chàng ra lệnh chuẩn bị dời bản đi sang đất khác.
Hôm dọn đồ đạc, Mao thấy cái tù và ở trên gác xép. Trên tù và có một lỗ nhỏ buộc dây. Chàng sực nhớ ra sợi dây bằng bạc lấy trong đám xương cụ tổ. Chàng bèn lấy sợi dây đeo vào tù và. Chiếc tù và cũ bỗng dưng trông đẹp hẳn lên. Mao cầm tù và rúc thử một hồi. Thật kỳ lạ! Khi tiếng tù và vừa mới cất, những con sâu đen trên cây tự dưng quằn quại rồi rơi xuống đất.
Mao ngạc nhiên, chàng cầm tù và rúc thử vài lần. Những con sâu đen rụng xuống như mưa.
Chàng sung sướng, vội vã sai ngay mọi người dừng việc dọn nhà.
Cả bản reo hò theo Mao lên rừng. Sáng ngày hôm ấy, chiếc tù và không ngớt rúc lên âm thanh kỳ lạ của nó. Sâu đen rơi xuống rào rào, người ta chỉ cần vun lại giết đi. Nạn sâu phá hoại chỉ trong một ngày đã bị diệt sạch. Diệt xong nạn sâu, dân bản Hua Tát mở hội ăn mừng. Chiếc tù và cũ được đặt trang trọng trên ngai thờ.
Từ đấy, ở bản Hua Tát, sáng sáng lại có một hồi tù và vang dội cất lên. Tiếng tù và cổ xưa nhắc nhở mọi người nhớ đến tổ tiên, báo hiệu cuộc sống bình yên không có sâu hại.
Chiếc tù và lúc nào cũng đeo bên mình ông già câm Hà Văn Nó. Chiếc tù và ấy trông cũng bình thường, chẳng khác mấy tí những chiếc tù và thường gặp. Thậm chí còn như xấu xí, tiếng kêu cũng chẳng to hơn.
(Trích Chiếc tù và bị bỏ quên, Nguyễn Huy Thiệp, Những ngọn gió Hua Tát,
NXB Hội Nhà văn, 2024)
*Chú thích: Nguyễn Huy Thiệp là hiện tượng độc đáo của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, để lại sức ảnh hưởng và dấu ấn lớn trên văn đàn. Ông viết nhiều thể loại: truyện ngắn, thơ, tiểu thuyết,... nhưng đặc sắc nhất là truyện ngắn. Truyện ngắn của ông có cấu trúc, nhân vật, ngôn ngữ, cách triển khai riêng biệt, lối văn tự sự mang xu hướng tự thuật, cô đọng, ngắn gọn. Một trong những mảng đề tài đặc sắc nhất của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là nông thôn, với Chảy đi sông ơi (1985), Những bài học nông thôn (1988), Thương nhớ đồng quê (1992)...Mảng đề tài thứ hai là về miền rừng núi, mang dấu ấn 10 năm ông dạy học ở Tây Bắc. Đó là những truyện ngắn xuất sắc: Những ngọn gió Hua Tát (1971-1986), Muối của rừng (1986).
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1(0.75 điểm). Xác định nhân vật chính của câu chuyện trong văn bản.
Câu 2(0.75 điểm). Liệt kê một số chi tiết miêu tả hình ảnh chiếc tù và trên gác xép nhà trưởng bản Hà Văn Nó trong văn bản.
Câu 3(1.0 điểm). Nêu tác dụng của biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong câu văn sau:
Tiếng súng thưa thớt trên rừng khiến lòng chàng như lửa đốt.
Câu 4(1.0 điểm). Nêu ý nghĩa của yếu tố kì ảo được sử dụng trong văn bản.
Câu 5(1.0 điểm). Chi tiết Trưởng bản Hà Văn Nó gầy rộc, ông cùng với dân bản tìm đủ mọi cách để diệt thần trùng ấy có vai trò gì trong việc thể hiện nội dung văn bản?
Câu 6(1.5 điểm). Từ sự tương phản giữa vẻ bề ngoài và sức mạnh bên trong của chiếc tù và trong văn bản trên, anh/chị hãy bày tỏ suy nghĩ về cách con người nhìn nhận, đánh giá những giá trị của sự vật, hiện tượng trong cuộc sống (Trình bày khoảng 5-7 dòng).
II. VIẾT(4.0 điểm)
Thước đo của cuộc đời không phải là thời gian mà là cống hiến (Peter Marshall).
Từ ý kiến trên và kết hợp với trải nghiệm của bản thân, anh/chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bày tỏ suy nghĩ về vấn đề: Lẽ sống cống hiến của tuổi trẻ hiện nay.
---HẾT---
TỔ TRƯỞNG CHUYÊN MÔN NHÓM TRƯỞNG CHUYÊN MÔN
Lương Thị Yến Trần Thị Oanh





